Ngày 2-7-2013, chiếc chuyên cơ chở Tổng thống Bolivia Evo Morales bay từ Moscow buộc phải hạ cánh xuống sân bay ở thủ đô Vienna (Áo) khi bị các nhà chức trách Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha từ chối cho phép bay qua không phận.
Chỉ hai tháng sau, một vụ việc tương tự lại diễn ra. Ngày 19-9-2013, Washington đã từ chối không cho phép máy bay của Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro bay ngang không phận Mỹ (dự kiến bắt đầu ngày 20-9) để đi thăm Trung Quốc. Tuy ở mức độ ít nghiêm trọng hơn vì được cảnh báo trước nhưng về bản chất thì hai vụ việc này chẳng khác nhau là bao về sự “tự tung, tự tác” của một số nước luôn hô hào là phải tuân thủ và bảo vệ những chuẩn mực quốc tế.
Điều còn kỳ lạ hơn là cái cách giải thích của các nước phương Tây về những quyết định trên.
Chính phủ Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đưa ra lý do nghi ngờ “trên chuyên cơ của Tổng thống Morales có E. Snowden”, nhân viên tình báo đang bị chính phủ Mỹ truy lùng. Trong bối cảnh vẫn đang chìm đắm trong cơn khủng hoảng nợ công, khó khăn tới mức thậm chí Liên minh châu Âu đang đứng trước nguy cơ “tan đàn xẻ nghé”, thì rõ ràng các nước này vốn đang gặp nhiều khó khăn nhất trong khu vực đồng euro, không dễ dàng tự gây khó dễ tại thị trường truyền thống đầy tiềm năng Mỹ Latinh vì sự “nhờ vả” hay gây sức ép của Mỹ. Bởi với quyết định, mà theo lời ngoại trưởng Bolivia David Choquenhuanca là “một hành động có tính thù địch, bởi không ai có thể chặn không phận và cấm một máy bay chở Tổng thống đang có chuyến thăm quốc tế”. Không có lý lẽ hợp lý nào để chặn không phận", các nước Tây Âu chắc chắn sẽ phải đối mặt với ít nhất hai vấn đề: một là, uy tín với cộng đồng quốc tế bị giảm sút bởi đi ngược lại với những thông lệ quốc tế; hai là, sự phản đối của các nước, trước hết là các nước Mỹ Latinh.
Trên thực tế, ngay sau quyết định này, liên minh các quốc gia Nam Mỹ (UNASUR) đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp ngày 3-7-2013 nhằm đối phó với các nước Tây Âu. Sau đó, ngày 13-7, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 45 của Khối thượng mại tự do Nam Mỹ (MERCOSUR), Tổng thống Argentina, Brazil, Uruguay và Venezuela đã nhất trí triệu hồi các đại sứ của mình tại Tây Ban Nha, Pháp, Italia và Bồ Đào Nha để phản đối, đồng thời triệu đại sứ bốn nước châu Âu lên để yêu cầu giải thích vụ việc. Kể cả nếu đúng là vì vụ Snowden thì uy tín của chính phủ các nước này lại càng bị suy giảm ngay cả với người dân của chính họ.
Cách giải thích “do chính phủ Venezuela không gửi kịp thời yêu cầu mở không phận” của người Mỹ lại càng bất cập, bởi lẽ trong thời đại văn minh công nghệ thông tin hiện nay, nhất lại là trong công tác chuẩn bị cho chuyến đi của nguyên thủ quốc gia, thì thật khó xảy ra những lỗi kỹ thuật ngớ ngẩn như vậy. Chính vì thế, hoàn toàn dễ hiểu phản ứng mạnh mẽ của chính quyền Venezuela khi ngoại trưởng nước này Elias Jaua phẫn nộ: “Chúng tôi xem điều này như là một sự sỉ nhục khác nữa của chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ nhằm vào chính phủ Venezuela”.
Mặc dù ngay sau đó, chính phủ các nước Tây Âu đã gửi lời xin lỗi Bolivia, còn chính quyền Mỹ cũng tuyên bố vào tối hôm 19-9 đã cấp phép cho máy bay của Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro bay qua không phận Mỹ (vùng biển Đại Tây Dương). Nhưng bởi các quyết định này vừa đụng chạm đến quy chuẩn luật pháp quốc tế vừa đe dọa đến tính mạng nguyên thủ quốc gia (xét cho cùng đó là chủ quyền quốc gia) nên hầu hết đều cho rằng, thực chất đây là chính sách gây hấn của các nước phương Tây nhằm vào các nước mà họ không có thiện cảm như Venezuela hay Bolivia.
Một thực tế không thể phủ nhận là sau một chặng đường dài đầy khó khăn, xã hội loài người chúng ta đang bước vào kỷ nguyên văn minh. Hệ thống luật pháp quốc tế hiện hành có thể coi là bằng chứng sinh động nhất cho cuộc sống văn minh. Những tưởng lối hành xử dựa vào sức mạnh theo kiểu “ngoại giao pháo hạm” hay lợi dụng bất cứ một cơ hội nào, dù là nhỏ nhất và thậm chí có thể vi phạm những chuẩn mực quốc tế, sẵn sàng gây khó dễ cho các nước khác nhằm đạt được mục đích cho riêng nước mình v.v. như kiểu quan hệ giữa các đế quốc hồi cuối thế kỷ 19 đã lùi sâu vào dĩ vãng. Song, nếu lồng ghép những quyết định trên đây với những gì đã từng xảy ra ở Iraq năm 2003, Lybia năm 2012 hay mới đây là trong vấn đề vũ khí hóa học của Syria v.v. chúng ta sẽ phải giật mình bởi lối sống đã tồn tại cách đây hơn 100 năm đang được tái hiện.
Chiến tranh lạnh đã kết thúc hơn 20 năm, nhưng dường như các nước lớn vẫn chưa thực sự chấp nhận một thế giới tùy thuộc lẫn nhau thời toàn cầu hóa. Thói quen áp đặt hay tự cho mình những quyền hạn “đặc biệt” vẫn luôn luẩn quẩn trong các quyết sách của những nước này.
Tuy nhiên, nếu đây là nguyên nhân chính thì cách hành xử như trên của các nước lớn thật đáng quan ngại, thậm chí có thể mở đường cho những tiền lệ hết sức nguy hiểm về sau. Đương nhiên, các nước nhỏ không thể đáp trả bằng những hành động tương tự, bởi lập tức họ sẽ bị lên án là vi phạm luật quốc tế và kèm theo là những biện pháp trừng phạt. Hoặc đơn giản là vì các nước nhỏ làm gì có đủ khả năng để thực hiện những quyết định như vậy. Chính đây là điều kiện để không ít những lực lượng tìm đến những hành động cực đoan, và đó chính là cội nguồn của những hoạt động có tính chất khủng bố.
Những quyết định có thật mà như đùa trên cũng đặt ra cho cộng đồng quốc tế một nhiệm vụ cấp bách – bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp quốc tế để có thể ngăn chặn tái diễn những vụ việc tương tự. Rõ ràng, các chuẩn mực quốc tế đang tỏ ra tụt hậu với thực tiễn ngày càng phức tạp của đời sống quốc tế đương đại. Sau tất cả những gì đã xảy ra với các nước nhỏ, một lời xin lỗi, hoàn toàn không thể xóa đi những di chứng nặng nề.
Hi vọng những quyết định có tính áp đặt, cường quyền chỉ có tính hiện tượng, cục bộ chứ không phải là một xu hướng, bởi chắc các nhà lãnh đạo của các nước lớn thừa thông minh để hiểu, họ vẫn cần phần còn lại của cộng đồng .