Thời gian công cán của hai nhà lãnh đạo là tương đương nhưng kết quả đạt được thì khác nhau hoàn toàn. Nếu chuyến đi của tổng thống Obama chỉ đạt được việc khẳng định với các đồng minh rằng hình ảnh và trách nhiệm của nước Mỹ tại Trung Đông sẽ không hề thay đổi, thì với 30 văn kiện (dĩ nhiên là những gì hai bên công khai) được ký trong thời gian thăm Nga cho thấy ưu thế thuộc về người đồng cấp Tập Cận Bình. Tất nhiên, mọi sự so sánh đều không thỏa đáng, nhưng kết quả của hai chuyến viếng thăm này buộc người ta phải đặt câu hỏi tại sao Nga – Trung lại thỏa thuận được với nhau nhanh vậy và thực chất những thỏa thuận này hướng tới điều gì?
Có phải nhằm đối trọng với Mỹ?
Trước vị thế siêu cường của Mỹ, việc Nga và Trung Quốc tăng cường quan hệ với nhau âu cũng là lẽ phải làm, bởi sẽ giúp cho cả hai có được sự tự tin trong quá trình vươn lên vị thế cường quốc hàng đầu. Thực tế thì người Mỹ cũng đã và đang gây rất nhiều khó khăn cho tham vọng của cả Nga và Trung Quốc. Với Nga, trước hết là vấn đề hệ thống lá chắn tên lửa Mỹ đang triển khai tại Ba Lan và Romania, đặc biệt là sự can thiệp ngày càng sâu vào các vấn đề xã hội của Nga (như đạo luật Macniski bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2013). Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thì lại càng cảm thấy bất ổn hơn với chính sách “xoay trục châu Á” của chính quyền Obama.
Trớ trêu thay, cả Trung Quốc và Nga đều lại rất cần đến Mỹ cho những mục tiêu của mình. Trong đường lối đối ngoại được ông Putin vạch ra sau lễ nhậm chức, Mỹ và châu Âu vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đơn giản vì từ những vẫn đề phát triển bên trong đến những vấn đề quốc tế của Nga vẫn chịu ảnh hưởng quá lớn từ Mỹ. Với Trung Quốc, chỉ riêng con số hơn 500 tỷ USD kim ngạch thương mại Mỹ - Trung (năm 2012, trong so sánh với 88 tỷ USD thương mại hai chiều Trung – Nga) và hơn 1400 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ mà Trung Quốc đang sở hữu đủ để lý giải tính “cộng sinh” của hai nền kinh tế khổng lồ nhất thế giới này.
Hơn thế, chính sách mềm dẻo của chính quyền Obama đang khiến cho cả Trung Quốc và Nga không thể “bực mình” được. Ngày 27-11-2012, Bộ tài chính Mỹ tuyên bố Trung Quốc không thao túng tiền tệ - một ngòi nổ của chiến tranh thương mại đã được tháo gỡ. Trước chuyến thăm của chủ tịch Tập Cận Bình, ngày 15-3-2013, tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tuyên bố dừng triển khai hệ thống tên lửa ở châu Âu (để chuyển sang châu Á). Mà chính kết quả của chuyến công du Trung Đông cho thấy, đây không phải là thời điểm chính quyền Obama muốn gây áp lực với cả Nga và Trung Quốc.
Như vậy, hợp tác Trung – Nga nhằm “đối trọng với Mỹ” có lẽ chỉ là cái cớ dành cho các chuyên gia phân tích còn nếu đúng là sự thật chắc phải trong một thời gian nữa.
Nỗi niềm nămg lượng hay mục tiêu khắc phục khủng hoảng?
Khi tranh cử, ông Putin đã hứa sẽ đưa nước Nga trở thành nền kimh tế số 5 thế giới. Căn bệnh nợ công (và rộng ra là cuộc khủng hoảng kinh tế của eurozone) đang biến thị trường EU, đối tác nhập khẩu dầu lửa lớn nhất, thành mối đe dọa nghiêm trọng tới chương trình phát triển của nước Nga bởi khả năng thanh khoản. Với tư cách là nền kinh tế thứ hia thế giới, Thị trường Trung Quốc đáp ứng được những tiêu chí “cự ly lẫn cường độ” hay lợi nhuận lẫn an ninh.
Cuối năm 2012, Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành nướcnhập khẩu dầu lửa lớn nhất thế giới (khoảng 6 triệu thùng dầu/ngày). Trong khi đó, những biến động xã hội đã khiến cho thị trường Bắc Phi – Trung Đông trở thành thảm họa với Trung Quốc (đơn cử như sau nội chiến , Trung Quốc bị đánh bật khỏi Lybia). Hơn thế, những hạn chế của hải quân Trung Quốc chẳng thể đảm bảo cho những chuyến hàng từ khu vực này hay châu Phi. Cái chết của tổng thống Hugo Chavez cũng đang khiến cho những dự án dầu lửa ở Mỹ Latinh trở nên mong manh hơn. Nhà cung cấp láng giềng Nga thực sự trở thành cứu cánh cho chương trình “Đại phục hưng” của thế hệ Tập Cận Bình. Tuy mất tiền mua, nhưng không phải vô cớ mà chuyến đi được các nhà lãnh đạo Trung Quốc đánh giá là “thành công tuyệt vời”.
Vào thời điểm hiện tại, khi hai nước bắt đầu “ngấm” ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiệm vụ phục hồi tăng trưởng trở nên bức thiết thì rõ ràng tiền vẫn là thứ cần nhất. Những văn kiện được ký trong chuyến viếng thăm về hợp tác trong lĩnh vực năng lượng thể hiện rất rõ mối quan hệ “vì tiền” nhiều hơn là về an ninh. Theo đó, Nga trở thành người bán nguyên nhiên liệu cho Trung Quốc (68 tỷ m3 gas tự nhiên/năm trong vòng 30 năm, hơn 24 triệu tấn dầu/năm).
Tất cả cho thấy, hợp tác Trung – Nga vẫn chỉ dừng lại ở mức độ mua và bán.
Có rủi ro không?
Chẳng có hợp đồng mua bán nào mà chẳng có khả năng đem đến những hệ lụy khó lường. Sự phát triển của quan hệ đối tác chiến lược Trung – Nga cũng khó tránh khỏi những quan ngại mà chắc chắn đôi bên sẽ phải tính đến.
Trước hết, với Nga, sự phát triển ngày càng cao của bạn hàng Trung Quốc sẽ càng khiến khả năng cạnh tranh của Nga kém đi xét trên cả phương diện kinh tế lẫn chính trị. Với Trung Quốc, sự lệ thuộc vào nhà cung cấp nguyên nhiên liệu láng giềng là điều rất dễ xảy ra bởi những thành công của Trung Quốc được xây dựng từ nguồn dầu lửa của Nga.
Thứ hai, tăng cường quan hệ Trung – Nga có thể lại tạo điều kiện cho các vấn đề vốn chưa có hướng giải quyết như di dân, buôn lậu, tội phạm v.v. phát triển.
Thứ ba, vào thời điểm hiện tại, quan hệ Trung – Nga phát triển trong một mạng lưới quan hệ quốc tế hết sức phức tạp và vì thế, sự phát triển của nó rất dễ làm tổn thương các mối quan hệ khác hoặc ngược lại. Chính sự mất cân đối trong kim ngạch thương mại Trung – Nga (trong so sánh với các đối tác quan trọng khác như EU và Mỹ chẳng hạn: kim ngạch thương mại Nga – EU hay Trung – Mỹ đều cao gấp 5 lần Trung – Nga (450 - 500 tỷ so với 88 tỷ USD) có thể là nguyên nhân chính khiến cả hai, trước hết là Nga, phải thận trọng trong các hợp đồng mua bán vũ khí truyền thống. Trong chuyến công du lần này, hai bên đã không ký bất cứ một hợp đồng buôn bán vũ khí nào (theo thông báo của cả phía Nga và Trung Quốc).
Điều cuối cùng, kết quả của chuyến công du này còn cho thấy, dường như cả Trung Quốc lẫn Nga vẫn chưa thoát khỏi mô hình tăng trưởng cũ, chưa thực sự có bước đột phá nào để thực hiện cam kết “tái cơ cấu nền kinh tế”. Đấy có phải là mối lo không, chắc chỉ có những thế hệ sau mới có câu trả lời.