Ngày 23-1, Thủ tướng Anh David Cameron lại vừa công khai tuyên bố về việc sẽ tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 2017, để người dân Anh đưa ra quyết định việc nước Anh sẽ tiếp tục ở lại hay rút khỏi EU. Ý định này một lần nữa được thủ tướng Cameron khẳng định tại Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) vừa bế mạc hôm 26-1 tại Thụy Sỹ.
Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên các quan chức Anh đưa ra những tuyên bố với nội dung tương tự. Lần gần đây nhất là vào hồi tháng 10 năm ngoái, các nghị sĩ Anh đã bỏ phiếu tán thành một cuộc trưng cầu dân ý về việc rút khỏi EU.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hầu hết các quốc gia đều đẩy mạnh việc hội nhập quốc tế, trước hết là tham gia vào các liên kết, tổ chức đa phương, với hy vọng thu lượm được những kết quả hữu hiệu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhưng nếu những kỳ vọng lại chuyển thành thất vọng thì rõ ràng cách ứng xử của quốc gia thành viên sao cho “phù hợp” thất đáng phải suy ngẫm. Từ bài học của nước Anh, người viết chỉ xin được đề cập tới các quốc gia xin gia nhập một tổ chức quốc tế (không phải là thành viên sáng lập).
Trước hết, chuyện gia nhập một tổ chức quốc tế là không hề giản đơn với bất cứ một quốc gia nào. Sự ra đời của một tổ chức quốc tế là kết quả tương tác những lợi ích của tất cả các thành viên sáng lập. Việc xuất hiện những thành viên mới của tổ chức này, vì thế, phụ thuộc cùng một lúc ít nhất vào hai yếu tố: nguyện vọng (những toan tính) của quốc gia xin gia nhập và sự chấp thuận (những toan tính) của các quốc gia thành viên sáng lập. Trên thực tế, để đạt được điều này là không hề đơn giản. Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) thành lập từ năm 1957 nhưng mãi tới năm 1973 nước Anh mới có thể gia nhập. Thái độ chần chừ của người Anh lúc đầu và sau này là sự phản đối của một số thành viên sáng lập, tiêu biểu là Pháp, được coi là những lý do chính dẫn đến sự chậm chễ này.
Cũng chính vì đòi hỏi đồng bộ hai yếu tố trên nên Việt Nam mất 11 năm mới gia nhập được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên bang Nga còn mất tới gần 20 năm.
Trường hợp của nhà nước Palestin có thể coi là ví dụ điển hình cho sự khó khăn trong việc xin gia nhập một tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc). Trở thành quan sát viên của LHQ từ năm 1974 nhưng nguyện vọng chính đáng và cháy bỏng của người dân Palestin cho đến tận ngày hôm nay mới chỉ được đền đáp thật khiêm tốn – Thành viên quan sát viên chính thức. Sự chống đối của những thành viên cũ như Mỹ hay Israel là rào cản chính khiến cho giấc mơ gia nhập LHQ (một tổ chức mà để trở thành thành viên chỉ đơn giản là tuyên thệ sẽ tuân thủ Hiến chương của nó là đủ) của dân tộc Palestin sẽ còn rất lâu nữa mới trở thành hiện thực.
Điều trớ trêu là việc gia nhập tổ chức quốc tế đã khó như vậy nhưng không phải lúc nào các thành viên mới (và kể cả các thành viên sáng lập) cũng thu lượm được những gì họ mong muốn. Không ít trường hợp, tư cách thành viên lại khiến cho chủ quyền của họ bị đe dọa. Lệnh cấm vận của LHQ với Iraq, Iran hay CHDCND Triều Tiên là những minh chứng rõ ràng nhất. Nhiều người đã tự hỏi, nếu Libya không phải là thành viên của LHQ thì liệu đất nước này có phải chịu chấp nhận một Nghị quyết 1973 hay không (Nghị quyết của HĐBA mở đường cho các cuộc không kích của NATO trong suốt 5 tháng trong năm 2011).
Mặt khác, sự phát triển của tổ chức quốc tế chính là tấm gương phản chiếu hai quá trình vận động song song là sự thay đổi nhu cầu của các thành viên cũng như khả năng điều chỉnh của tổ chức này nhằm đáp ứng sự thay đổi đó. Mâu thuẫn cũng bắt đầu nảy sinh từ đây do thường xuyên không có sự đồng tốc của hai sự thay đổi này. Tuổi thọ của bất cứ tổ chức quốc tế nào, trước hết, đều phụ thuộc vào sự đồng cảm và sự kiên nhẫn chịu đựng mâu thuẫn này (bởi tính nan giải của nó) của các thành viên. Chính vì thế, hiện tượng “phá rào” như trong trường hợp nước Anh cũng không phải là hiếm. Năm 1961, Albani đã xin ra khỏi cả khối Tương trợ kinh tế (SEV) và khối Hiệp ước Varsava.
Điều có lẽ đáng bàn ở đây là những cái được và mất đối với quốc gia thành viên khi tính chuyện xin rút lui trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Trong trường hợp của nước Anh, nếu rút khỏi EU, mỗi năm nước Anh sẽ không phải đóng góp 8 tỷ euro. Nông dân Anh sẽ có thể bán được nhiều sản phẩm hơn do không phải chịu những quy định của chính sách nông nghiệp chung. Người Anh cũng sẽ dần thoát khỏi những quy định tài chính của EU và cũng không cần lo lắng những câu chuyện kiểu như nợ công của eurozone v.v.
Mặt khác, tổn thất mà nước Anh phải chịu chắc không hề nhỏ. Nước Anh rất có thể rơi vào thảm họa nếu thị trường EU (hiện chiếm 53% tổng xuất khẩu và 52% tổng nhập khẩu của Anh) bị thu hẹp, thậm chí có thể không còn. Người Anh còn có thể mất nhiều thứ mà rất khó có thể quy ra tiền bạc. Đơn cử như vai trò của Anh trên trường quốc tế, trước hết là trong quan hệ giữa họ với Mỹ và EU. Tổng tống Obama đã khẳng định: “Người Mỹ muốn thấy một nước Anh mạnh trong một EU vững chắc”. Nói cách khác, chắc không nhà lãnh đạo nào từ cả hai phía Mỹ và Anh dám khẳng định, rời khỏi EU liệu nước Anh có còn giữ được vai trò “đồng minh đặc biệt” trong quan hệ với Mỹ hay không.
Một điều chắc chắn là việc thay đổi mô hình phát triển được xây dựng dựa trên sự gắn bó của Anh với châu Âu trong suốt 40 năm qua sẽ khiến cho nước Anh phải hao tổn không hề nhỏ cả tiền bạc lẫn thời gian. Hơn thế, hiện tại, sở dĩ EU vẫn đứng vững được trong bối cảnh phải cạnh tranh khốc liệt với các nền kinh tế mới nổi như nhóm BRICS, chính là nhờ ở sự gắn kết của 27 thành viên trong EU. Trong trường hợp nước Anh đứng riêng rẽ thì khả năng tụt hậu nhanh chóng của nền kinh tế hiện đứng thứ năm thế giới là điều dễ khẳng định.
Một điều cũng không khó dự báo là uy tín của nước Anh tại các tổ chức quốc tế khác chắc chắn sẽ giảm sút như là một hệ quả tất yếu từ hồ sơ thực dụng ngày càng dầy lên của người Anh (nước Anh không tham gia eurozone cũng như liên minh ngân hàng của EU v.v.).
Qua trường hợp của nước Anh, chúng ta thấy việc xin gia nhập hay rút khỏi một tổ chức quốc tế rõ ràng là rất không đơn giản.
Sự đau đầu của câu chuyện không chỉ vì những toan tính của lý trí mà cần có cả tiếng gọi của tình người. Hội nhập quốc tế vẫn luôn là bài toán khó là vì vậy. Phải chăng vì vấn đề quá khó mà Thủ tướng Cameron phải nhờ đến ý kiến của đông đảo của người dân?